Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

Tình dục học - Chương 1


Tình dục học là một môn học về tình dục đề cập đến toàn bộ những vấn đề liên quan đến tình dục của con người.
Tình dục học (human sexuality studies) là một môn khoa học xã hội bao gồm nhiều bộ môn khoa học khác nhau: xã hội học, văn hóa học, nhân học, lịch sử, phụ nữ học, giới học, triết học, sinh học, v.v. Khoa học tình dục được ra đời từ khoảng giữa thế kỷ 20 nhằm nghiên cứu hành vi tình dục của loài người nhằm giải thích cho nhiều hiện tượng, hành vi tình dục khác nhau chẳng hạn như nhận dạng, định hướng,sở thích tình dục dưới khía cạnh của những phân tích văn hóa, các định kiến xã hội, quyền lực, bất bình đẳng giới, phân biệt chủng tộc... nhằm hướng tới sự công bằng xã hội. Chẳng hạn, khi tìm hiểu về hành vi tình dục đồng giới nam trên nhóm người Sambia thuộc Papua New Guinea, nhà nhân chủng học Hoa kỳ, Gilbert Herdt, đã phát hiện ra rằng hành vi tình dục đồng giới nam diễn ra với hầu hết tất cả những người nam mới trưởng thành ở dân tộc này và là hành vi hoàn toàn bình thường. Điều này đi ngược lại với các giả định của các học giả Phương Tây khác cho rằng hành vi tình dục đồng giới chỉ là thiểu số và thường bị gán với các định kiến xã hội như các tệ nạn phi loài người...
Cần thiết phải phân biệt rõ khoa học tình dục và khoa học Tính dục (Sexology). Khoa học tính dục nghiên cứu chuyên biệt khía cạnh sinh học của các hoạt động tình dục. Các nhà Tính dục học (Sexologist) thực hiện các thí nghiệm sinh học liên quan tới bộ phận sinh dục.

Bác sĩ giải đáp về "chuyện ấy"
Tác giả: Ferederic Rossiter (Nguyễn Anh Tuấn dịch)
 LTS: "Phần lớn mọi người nghĩ rằng, họ đã biết tất cả những gì cần biết về tìnhdục; nhưng theo các chuyên gia trong lĩnh vực này, rất nhiều cặp vợ chồng không biết cả những điều tối thiểu. Việc xem sách vở qua quýt khiến người ta thiếu kiến thức hoặc có những quan niệm sai lầm về tình dục, và điều này làm mất đi nhiều niềm vui mà đáng lẽ họ được hưởng trong cuộc sống.
Bằng hình thức trò chuyện giữa bác sĩ với hai vợ chồng, cuốn Bác sĩ giải đáp về chuyện ấy của giáo sư Ferederic Rossiter (Nguyễn Anh Tuấn dịch) có thể đem lại cho người đọc các thông tin tương đối đầy đủ đời sống tình dục, khắc phục những quan niệm sai lạc mà mỗi người đều có thể mắc phải. Sách được Nhà xuất bản Y học ấn hành năm 1998".

Tình dục học - Chương 1.
Thường thì người phụ nữ mong đợi rằng chồng của cô ta sẽ luôn hành động như một hiệp sỹ, sẵn sàng làm một việc gì đó cao thượng vì danh dự của cô ta, và tuôn ra những lời biết ơn. Sau đó, khi biết rằng những hành vi của chồng không giống như những hy vọng thầm kín của mình, cô ấy bắt đầu nghĩ rằng nguyên nhân là do cô, cô không có sự quyến rũ cần thiết về tình dục để có thể gây hưng phấn cho chồng bằng những biện pháp bình thường. Một người vợ như vậy sống trong thế giới của ước mơ; cơ hội để tạo ra một gia đình êm ấm không lớn lắm chừng nào cô ta chưa ý thức được sai lầm của bản thân.

Vệ sinh thân thể có ý nghĩa rất lớn trong hôn nhân, đúng hơn là trong sinh hoạt tình dục của nam giới và phụ nữ. Một số phụ nữ dùng cách phun xịt nước hoa để thay thế cho việc rửa ráy các cơ quan sinh dục hằng ngày. Điều này, cũng như một số yếu tố như hơi thở hôi hám, cặp chân bốc mùi... có ảnh hưởng rất tồi tệ trong sinh hoạt tình dục. Sự sạch sẽ của cơ thể là niềm tự hào của mỗi người.
Không hòa hợp về tình dục là một trong những vấn đề quan trọng nhất mà các cặp vợ chồng thường gặp phải. Theo một cuốn sách gần đây, nguyên nhân của 75% cuộc ly hôn là không có sự thỏa mãn khi giao hợp.

1. Chồng: Liệu có phải sự không hòa hợp về tình dục là đặc điểm chỉ có ở các cặp vợ chồng mới cưới không?
Bác sĩ: Không hoàn toàn như vậy. Thường thì các cặp vợ chồng đã chung sống vài năm mới phát hiện ra sự không thỏa mãn khi giao hợp. Anh có thể không tin, có những phụ nữ đã lấy chồng 20 năm, sinh được một vài đứa con, nhưng trong suốt thời kỳ ấy không một lần nào đạt được cực khoái, mặc dù đó là những phụ nữ hoàn toàn bình thường và khỏe mạnh.

2. Vợ: Thưa bác sĩ, điều đó khó có thể tin được trong thực tế. Lẽ nào một phụ nữ có 20 năm kinh nghiệm tình dục mà lại không bao giờ có được khoái cảm?
Bác sĩ: Anh chị nên biết rằng, rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tới điều đó. Trong thực tế, đây là một vấn đề đối với các bác sĩ tâm lý học, bởi vì thường người phụ nữ không thừa nhận hoặc giấu nỗi lo lắng mới xuất hiện. Nguyên nhân chính của tình trạng đó rõ ràng là do họ không được giáo dục đúng khi còn trẻ con. Người ta dạy họ rằng tình dục là sự ghê tởm đáng hổ thẹn, cần phải chịu đựng bản năng thú vật của đàn ông. Những phụ nữ đó không thích sự gần gũi về tình dục và về bản năng không muốn được nhận khoái cảm. Chỉ khi nào hiểu rằng, giao hợp là hoạt động cần thiết và lành mạnh thì cô ta mới có được khoái cảm và giải thoát khỏi những căn bệnh tưởng tượng làm cản trở những sự âu yếu, vuốt ve của người chồng đối với cô ta.

3. Vợ: Mặc dù mẹ tôi đã giảng giải cho tôi tất cả những gì mà bà cho là cần thiết nhưng có nhiều điều tôi vẫn cảm thấy khó hiểu.
Bác sĩ: Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Không ai là người có thể biết tất cả về tình dục, ngay cả bác sĩ cũng vậy.

4. Chồng: Chúng tôi cũng biết nhiều điều, nhưng hóa ra vẫn có nhiều vấn đề trong lĩnh vực tình dục còn chưa biết hết được, và điều đó làm chúng tôi thấy lo ngại.
Bác sĩ: Sự lo ngại xuất hiện bởi lẽ mỗi người phải va chạm với nhiều vấn đề khác nhau, nhiều phức tạp nảy sinh khi ta mong muốn tìm câu trả lời cho các vấn đề ấy. Nói đúng ra, những vấn đề gây lo lắng cho các cặp vợ chồng trẻ không nhiều, chủ yếu là phóng tinh sớm, không đạt được khoái cảm trọn vẹn.

5. Vợ: Có nghĩa là bác sĩ cho rằng các vấn đề ấy có thể giải quyết được?
Bác sĩ: Thật bất hạnh là không phải mọi vấn đề đều có thể giải quyết, chủ yếu là do bệnh nhân đến gặp bác sĩ để tìm lời khuyên hoặc chữa chạy quá muộn. Nếu như bệnh nhân đến đúng lúc thì có mọi khả năng để đạt được kết quả theo yêu cầu.

6. Chồng: Tôi có cảm giác chúng tôi chưa gặp phải vấn đề gì nghiêm trọng. Có lẽ vì chúng tôi chung sống chưa lâu nên chưa đủ thời gian cho các vấn đề đó xuất hiện?
Bác sĩ: Tất nhiên, hiện tại anh chị chưa gặp được các vấn đề tương tự, tôi nghĩ rằng cuộc nói chuyện nhỏ trong lĩnh vực này sẽ giúp ích cho anh chị.

7. Vợ: Chuyện thế này. Trước đây tôi không nghĩ là mọi việc lại phức tạp đến thế. Tôi tưởng rằng khi hai người gặp nhau, chỉ có vài việc mà bản năng cả hai đều biết cả.
Bác sĩ: Một số nhà bác học nói rằng, tìnhdục là sức mạnh lớn nhất trên thế giới, thậm chí mạnh hơn cả sự sống còn.
Chúng ta sống trong một xã hội ngày càng phức tạp, và vấn đề tình dục cũng được gói gọn trong "tấm vải" đó. Mỗi một người đều có những khái niệm riêng của mình về đạo đức. Nhưng các quy luật tình dục thay đổi không ngừng, số các vụ ly hôn cũng ngày càng tăng. Đó là chưa kể đến sự gia tăng của các bệnh thần kinh mà phần lớn bệnh nhân là những người vấp phải các vấn đề trong sinh hoạt tình dục (và không thể giải quyết được bằng các biện pháp thông thường).

8. Chồng: Nếu đúng như bác sĩ nói thì thật đáng sợ.
Bác sĩ: Không nên nghĩ như vậy; điều đó chẳng có gì đáng sợ cả. Có rất nhiều người bị rơi vào bẫy, nghĩ rằng điều đó không thể giải quyết được và lo sợ. Trong thực tế, tất cả không đến mức phức tạp như thế, vì mọi việc đều hết sức tự nhiên và vì thế cũng đơn giản; trong thiên nhiên chẳng có gì phức tạp cả. Có lúc nào anh chị nghĩ rằng trong giới động vật có ít con cái bị lãnh cảm không?

9. Vợ: Điều đó nói lên cái gì, thưa bác sĩ?
Bác sĩ: Điều đó khẳng định rằng, tất cả các vấn đề tình dục của loài người là do nhân tạo. Người ta lo lắng về cái chết trong khi ngay cả một con lừa ngu xuẩn cũng không nghĩ tới.

10. Chồng: Đúng vậy, thật lạ lùng rằng chúng ta không khi nào suy ngẫm về điều đó.
Bác sĩ: Đó là cơ sở của sự lo lắng. Như anh chị biết đấy, đại đa số người ta không thích thừa nhận sai lầm của mình. Vì thế khi trong hôn nhân phát triển sự mất cân đối, hai vợ chồng hay đổ lỗi cho nhau, thay vì nghiên cứu một cách bình tĩnh mọi vấn đề một cách có văn hóa.





 

Sinh con theo ý muốn

Di truyền học giới tínhMột trong những vấn đề quan trọng nhất trong sinh học từ trước tới nay là sinh vật ra đời với giới tính khác nhau. Hàng trăm giả thuyết về bản chất hiện tượng này đã được công bố trong các thế kỷ trước và đặc biệt ở thế kỷ thứ 19. Nhưng chỉ có thuyết nhiễm sắc thể (NST) là giải thích được vấn đề. Thuyết này đã phát hiện được cơ chế bên trong quyết định giới tính, đó là nhiễm sắc thể giới tính.
Giới tính của cơ thể sinh vật cũng là một tình trạng có cơ sở di truyền ở trong tế bào. Ngày nay, với kỹ thuật hiện đại của tế bào học, người ta đã phát hiện được rằng, NST giới tính là những NST đặc biệt, không giống các NST thường và khác nhau giữa con đực và cái.
Trong tế bào sinh dục của ruồi giấm có 4 cặp NST. Con cái có 1 cặp hình hạt nhỏ, 2 cặp hình chữ V, và 1 cặp hình que gọi là NST X.
Ở con đực, cặp thứ nhất cũng hình hạt, cặp thứ hai và ba cũng hình chữ V, còn cặp thứ tư thì một chiếc hình que gọi là NST X (mang tính cái), chiếc kia nhỏ hơn và hình móc gọi là NST Y (mang tính đực).
Các NST XX ở con cái, XY ở con đực là NST giới tính. Trong tế bào sinh dục, các NST thường tồn tại thành từng cặp đồng dạng. Những NST giới tính khi thì đồng dạng, khi không đồng dạng tùy từng nhóm loài. Các gene trên NST giới tính không chỉ quy định tính đực cái mà còn quy định một số tình trạng liên kết với giới tính.
Ở người có 23 cặp NST thì 22 cặp là NST thường, cặp thứ 23 là NST giới tính gồm XX ở nữ và XY ở nam. Ở các loài có vú, ếch, nhái, bò sát, sâu bọ (trừ bướm), NST giới tính của con cái đều là XX và của con đực là XY. Trái lại, ở chim, bướm và một số loài cá, NST giới tính của con cái lại là XY và của con đực là XX.
Cơ chế hình thành giới tính ở ngườiỞ nam giới, tế bào sinh dục chứa NST XY. Khi tế bào giảm phân thì X và Y tách nhau sinh ra hai loại tinh trùng: một loại chứa X (mang tính con gái), một loại chứa Y (mang tính con trai). Số lượng hai loại bằng nhau. Còn ở nữ giới, khi tế bào giảm phân, mỗi tế bào con đều chứa X, đấy là tế bào trứng. Thực ra, sau hai lần giảm phân, noãn bào cấp 1 cho ra một tế bào trứng hoàn chỉnh với tất cả phần tế bào chất dự trữ cần thiết và 3 thế cực phụ bị teo đi. Ở nam, sau hai lần giảm phân, tinh bào cấp 1 cho ra 4 tinh tử đơn bội. Các tế bào này không phân chia nữa và biến thành những tinh trùng hoạt động.
Khi thụ tinh, nếu tế bào trứng gặp tinh trùng mang NST X thì hợp tử sẽ có NST XX và phát triển thành con gái. Nếu tế bào trứng gặp tinh trùng Y thì hợp tử sẽ có NST XY và phát triển thành con trai. Đó là cơ chế hình thành giới tính ở người. Nắm được cơ chế hình thành giới tính và các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình phân hóa giới tính, người ta có thể chủ động điều chỉnh, thay đổi tỷ lệ đực cái.
Năm 1936, viện sĩ Axtaurop (ở Liên Xô cũ) đã tạo ra dòng toàn cái hoặc toàn đực. Việc điều chỉnh tỷ lệ đực cái có ý nghĩa lớn trong thực tiễn. Như nuôi bò thịt cần nhiều bê đực, nuôi bò sữa cần nhiều bê cái, nuôi gà đẻ cần nhiều gà mái, nhưng nuôi gà thịt lại cần nhiều gà trống.
Hoàn cảnh thụ tinh, điều kiện sống của cơ thể cũng có thể làm thay đổi tỷ lệ đực cái. Thí dụ: Tinh trùng thỏ để 12 giờ mới cho thụ tinh thì tỷ lệ đực tăng lên 2 lần. Lợn nái động đực 12 giờ mới cho thụ tinh thì tỷ lệ đực cũng tăng gấp rưỡi. Lợn nái được ăn uống đầy đủ thì số lợn cái trong lứa đẻ có thể bằng 1,5 lần số lợn đực. Dưa chuột nếu được hun khói thì số hoa cái tăng lên. Thầu dầu nếu trồng trong ánh sáng cường độ yếu, số hoa đực giảm đi... 

sinh con theo ý muốn 

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

Dowload Tình Dục Học Toàn Tập

Gồm 47 Chương được chia thành 7 tập.

  

Tình dục học tập 1

Tình dục học tập 2

Tình dục học tập 3

Tình dục học tập 4

Tình dục học tập 5

Tình dục học tập 6

Tình dục học tập 7

 

Tinh dục học - Chương 15

61. Chồng: Liệu có phương pháp tránh thai nào đảm bảo hiệu quả 100% không?
Bác sĩ: Có lẽ không có. Nhưng một số phương pháp rất gần với tỷ lệ đó. Nhiều bác sĩ khẳng định rằng việc sử dụng đúng bao cao su đảm bảo hiệu quả 100%. Bao cao su cần phải được kiểm tra trước khi sử dụng. Các bao mới có thể thổi thành bóng và bất cứ lỗ thủng nào cũng có thể phát hiện được.
Nạo thai là một biện pháp rất nguy hiểm đối với phụ nữ. Bất cứ cuộc nạo thai nào, dù được làm ở các cơ quan y tế, cũng có thể gây viêm nhiễm mà không có triệu chứng nào hết. Khi có thai, cơ thể phụ nữ chuẩn bị cho việc sinh nở, các hoạt động trong cơ thể có sự thay đổi. Nạo thai làm gián đoạn đột ngột quá trình sinh lý này. Điều đó không thể không có ảnh hưởng tới sức khỏe.
 
 Ngoài ra, trong lúc nạo thai, vòm tử cung bị nạo bằng dụng cụ đặc biệt, dẫn tới những thay đổi loạn dưỡng của vòm và viêm nhiễm trong vòi trứng. Sự viêm nhiễm vòi trứng có thể phá hoại khả năng co bóp, làm xuất hiện các mép dính, cản trở chuyển động của trứng để gặp gỡ với tinh trùng. Đây chính là sự vô sinh. Chính vì thế, phụ nữ cần làm quen với các phương pháp tránh thai phù hợp với tình trạng sức khỏe, cấu tạo sinh lý của cơ quan sinh dục, vị trí của chúng ở xương chậu nhỏ, điều kiện sống, lao động...
Trong một chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, có những ngày thuận lợi cho việc thụ tinh (sát thời điểm rụng trứng, có nghĩa là vào khoảng giữa ngày 11 đến ngày 17) và những ngày khó xảy ra thụ tinh. Tuy không bảo đảm 100% nhưng nhiều cặp vợ chồng đã tránh thai theo chu kỳ và rất hiệu quả .
Trứng rụng chỉ có thể thụ tinh được trong vòng 1 ngày, còn tinh trùng chỉ có khả năng sống trong âm đạo không quá 2 ngày. Vì vậy, có thể dễ dàng lập lịch những ngày an toàn, giao hợp mà không sợ có thai. Cần biết rằng phương pháp tránh thai này chỉ sử dụng cho những người vòng kinh đều và dài hơn 20 ngày.

Xác định ngày "an toàn" và ngày "không an toàn" bằng cách: Lấy số ngày của vòng kinh trừ đi 18, đó sẽ là ngày cuối cùng của thời kỳ "nguy hiểm nhất". Chẳng hạn, vòng kinh thường kỳ của phụ nữ là 30 ngày, có nghĩa là toàn bộ thời kỳ nguy hiểm kéo dài từ ngày 12 đến ngày 19 của vòng kinh.

Đôi khi, có thể sử dụng phương pháp sinh học với người có các vòng kinh khác nhau trong năm, song lúc đó thời kỳ "nguy hiểm" trở nên ngắn hơn. Có thể lấy vòng kinh dài nhất trừ đi 18 ngày, vòng kinh ngắn nhất trừ đi 11 ngày. Chẳng hạn, vòng kinh ngắn nhất trong năm là 24 ngày, dài nhất là 50 ngày, thời kỳ "nguy hiểm" sẽ là từ ngày thứ 6 đến ngày 19 giữa hai kỳ kinh nguyệt.

Trong những ngày có khả năng thụ tinh cao, cần sử dụng các biện pháp tránh thai khác, tốt nhất là phương pháp cơ học - sử dụng bao cao su. Trong những năm gần đây, người ta còn sử dụng các hoóc môn, thuốc viên, huyết thanh tránh thai... Các loại thuốc viên tạo ra trong cơ thể những hoóc môn có tác dụng kìm hãm, không cho trứng chín và rụng. Chúng hoàn toàn vô hại đối với cơ thể.
Loại thuốc nào phù hợp với từng người phụ nữ cụ thể, điều đó do bác sĩ phụ khoa quyết định. Tự động dùng thuốc không cần lời khuyên của bác sĩ là không nên.

Một phương pháp tránh thai đơn giản và hiệu quả khác là rửa tinh trùng ra khỏi âm đạo ngay sau khi giao hợp. Tinh dịch sau khi ra ngoài sẽ ở dạng cô đặc trong vòng 10 phút. Lúc này, tinh trùng không chuyển động, nên tận dụng thời điểm này đẩy tinh dịch ra ngoài. Sau khi giao hợp, người phụ nữ rửa âm đạo bằng nước ấm trong tư thế "ngồi xổm". Cho thêm vào nước một chất giết tinh trùng (tạo môi trường axít vì tinh trùng chỉ có thể di động trong môi trường kiềm). Có thể pha 1 lít nước với một trong các chất sau: dấm (2 thìa canh), thuốc tím 2% (1 thìa canh), axit salixili (1 thìa canh), bột axit boric (2 thìa canh)...

Có vô số loại thuốc tránh thai hóa học. Chúng được dùng dưới dạng bi, đặt vào âm đạo trước khi giao hợp. Vỏ bọc ngoài của chúng sẽ tan ra dưới ảnh hưởng của thân nhiệt và giải phóng các hóa chất khiến tinh trùng mất khả năng thụ tinh. Một số phụ nữ cắt một lát chanh mỏng đặt vào âm đạo trước khi giao hợp như một phương pháp tránh thai. Hiệu quả của nó khá tốt và hoàn toàn vô hại đối với sức khỏe.

Các phương tiện tránh thai cơ học cũng được sử dụng rộng rãi với mục đích ngăn sự thâm nhập của tinh trùng vào tử cung. Đàn ông sử dụng bao cao su theo phương pháp do bác sĩ người Anh Condom đề ra từ thế kỷ 17. Ngày nay, bao cao su được làm từ cao su tự nhiên rất mỏng và các nguyên liệu tổng hợp khác. Hiệu quả tránh thai có khi tới 100% (trong trường hợp bao cao su bị rách thì người phụ nữ cần thụt rửa âm đạo). Khi sử dụng bao cao su, cần tuân thủ các điều kiện sau: bao không được để quá 2 năm, trước khi sử dụng phải thử bằng cách thổi, cho bao vào dương vật phải đến tận cùng từ chỗ đựng tinh dịch.

Nhiều cặp vợ chồng từ chối dùng bao cao su vì cho rằng chúng làm giảm cảm giác. Nhược điểm của bao là làm mất tác dụng tích cực của hoóc môn tình dục trong tinh dịch đối với sự cực khoái của phụ nữ. Nhưng dù sao, trong nhiều trường hợp, nó là phương pháp tiện lợi để tránh thai (chẳng hạn như sau khi xa cách lâu ngày, khi sự ham muốn khó kìm hãm được bằng lý trí hoặc không có thời gian để chuẩn bị cho việc thụt rửa, trong lúc nghỉ phép, khi không có các điều kiện cần thiết để phòng tránh, hoặc khi có các quan hệ tình dục vô tình....). Bao cao su cũng rất có lợi đối với đàn ông hay bị phóng tinh nhanh, chúng làm giảm bớt độ nhạy cảm của đầu dương vật. Ngoài ra, bao cao su còn là phương tiện phòng chống có hiệu quả các bệnh lây qua đường tình dục, trong đó có AIDS.
Một biện pháp cơ học khác là đặt vòng tránh thai. Các vòng này được làm bằng cao su mỏng, có vòng mềm và vành cứng xung quanh, tạo thành vách ngăn trước cổ tử cung.

Tình dục học - Chương 14

 56. Chồng: Thưa bác sĩ, người đàn ông hoặc đàn bà phải làm thế nào nếu như một người muốn được giao hợp, còn người kia lại không thích, chẳng hạn do mệt hoặc ốm đau?
Bác sĩ: Sau khi xuất tinh và cực khoái, nam giới sẽ xuất hiện giai đoạn không hưng phấn tình dục, không sự kích thích nào tới các vùng kích dục có thể tạo ra sự hưng phấn được. Vai trò sinh lý của người đàn ông là thụ tinh cho phụ nữ. Chỉ có tinh trùng của lần đầu tiên là khỏe mạnh nhất, tinh trùng của các lần sau ít có khả năng làm thụ thai. Vì vậy, sau khi phóng tinh sẽ không có ham muốn tình dục, nó sẽ xuất hiện sau đó một thời gian. Phải biết chờ đợi.
Nếu phụ nữ không sẵn sàng giao hợp mà đàn ông lại ham muốn thì đơn giản hơn. Có thể bằng cách bôi nước bọt hoặc vadơlin vào các cơ quan sinh dục. Nhưng cần nhớ rằng sự thiếu ham muốn hoặc không có dịch nhờn tiết ra của phụ nữ trong lúc giao hợp là điều bất ổn trong sinh hoạt tình dục.
Còn nếu nói về bệnh tật thì theo tôi mọi việc đều rõ ràng: Khi người ta ốm, sẽ chẳng còn lúc nào mà nghĩ tới sinh hoạt tình dục nữa.
57. Vợ: Thưa bác sĩ, liệu có thể cho rằng mục đích chính của hôn nhân là để duy trì nòi giống không?
Bác sĩ: Thường là thế. Có một vài ngoại lệ. Chẳng hạn như các cặp vợ chồng có tuổi, đã qua tuổi sinh đẻ, những cặp vợ chồng có một hoặc hai người bị vô sinh và các trường hợp khác.
58. Chồng: Có nghĩa là bác sĩ cho rằng sẽ hoàn toàn bình thường nếu người ta lập gia đình ngay cả khi họ không thể có con được?
Bác sĩ: Tất nhiên. Một số người khẳng định rằng hôn nhân tồn tại chỉ để duy trì nòi giống. Tất nhiên, những người đó có quyền nêu các quan điểm như vậy; nhưng rất may là họ chỉ được một số ít người chia xẻ quan điểm mà thôi.
59. Chồng: Ngoài ra, thưa bác sĩ, ông có cho là bình thường khi các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai khi không muốn có con không?
Bác sĩ: Tất nhiên là đúng. Kế hoạch hóa gia đình là cần thiết trong xã hội phức tạp của chúng ta. Trong nhiều trường hợp, đó là biện pháp duy nhất để ngăn chặn việc sinh ra một đứa trẻ không bình thường. Những đứa trẻ đó chẳng đem lại mọi niềm vui nào cả. Trong trường hợp tốt nhất, chúng có thể bị tù tội, quản thúc. Đó là lời bình luận đáng buồn, đôi khi tình trạng sức khỏe của phụ nữ tệ tới mức các lần sinh nở tiếp sau có thể đe dọa tính mạng của họ.
60. Vợ: Thưa bác sĩ, khi nói rằng không nên quên các đòi hỏi về tình dục, ông muốn nói tới cả đàn ông và đàn bà? Bản thân tôi biết một số phụ nữ, họ nói với tôi rằng, họ sống rất thoải mái mà không cần tới đàn ông.
Bác sĩ: Đúng vậy, một số phụ nữ, kể cả những người đã có chồng, tuyên bố như vậy. Việc nghiên cứu kỹ càng sinh hoạt tình dục của họ với đàn ông đã chỉ ra một số hình thức đè nén tình dục. Đôi khi họ không coi đó là hình thức thỏa mãn tình dục và vì thế họ tự lừa dối bản thân một cách có ý thức hoặc vô ý thức. Một số phụ nữ có ham muốn tình dục yếu và họ thỏa mãn bằng một lần giao hợp trong ba tháng, hoặc đôi lần trong một năm. Một số người có quan hệ lén lút với tình nhân, nhưng lại không muốn thừa nhận các quan hệ ấy khi họ chưa bị bắt quả tang.
Những lời tuyên bố theo kiểu đó từ phía một số các phụ nữ (đặc biệt là những người đã có chồng) thường được phát ngôn trên cơ sở tâm lý. Chẳng hạn, họ muốn tạo ra cảm giác rằng, họ rất đoan chính và cho rằng tình dục là ghê tởm.

Tình dục học - Chương 13



 53. Vợ: Có thể trả lại hình dáng đẹp cho những người phụ nữ có cặp vú to quá cỡ không?
Bác sĩ: Một số phương pháp làm cho vú bé lại và có hình dáng đẹp hơn; trong đó có cả sự can thiệp bằng phẫu thuật (nhưng chỉ là các ca phẫu thuật đơn giản, không để lại sẹo). Mới đây, người ta dùng phương pháp mới để nâng các cặp vú to bị sệ bằng một dụng cụ làm từ xeluno đặt vào phần dưới của vú; dụng cụ này rất mềm mại, không gây viêm nhiễm khi ca phẫu thuật kết thúc. Ca mổ được tiến hành từ phía dưới vú nên không nhìn thấy sẹo. Cặp vú được nâng cao tùy ý và sẽ định hình tại đó.

54. Vợ: Thưa bác sĩ, điều đó có nghĩa là, đa số các vấn đề liên quan tới bộ ngực của phụ nữ đều có thể giải quyết được bằng cách này hay cách khác?
Bác sĩ: Đúng vậy. Nếu như người phụ nữ muốn trở thành bạn tình đầy quyến rũ đối với đàn ông, cô ta phải sử dụng các ưu thế có sẵn bẩm sinh từ kích thước cho tới hình dạng. Nếu không có ưu thế gì nổi bật, cô ấy phải làm tất cả những gì có thể để cải thiện.

55. Chồng: Thưa bác sĩ, điều gì diễn ra trong các cơ quan tình dục của đàn ông và đàn bà trong lúc giao hợp?
Bác sĩ: Hành vi tình dục của con người bị chi phối bởi một mục đích chính: đạt được sự thống nhất về tình dục. Các thay đổi về sinh lý và nội tạng diễn ra trong cơ thể khi giao hợp rất đa dạng. Những biểu hiện bên ngoài dưới dạng kích thích tình dục, sự cương cứng, phóng tinh và cực khoái là các phần riêng biệt trong hệ thống phản xạ thống nhất về hành vi của con người.

Cuộc giao hợp có thể chia làm vài thời kỳ nối tiếp nhau ở đàn ông cũng như ở đàn bà. Trong từng thời kỳ có những thay đổi nhất định ở các cơ quan sinh dục và cơ thể nói chung. Trong nhiều trường hợp, nhiều giai đoạn có thể không xuất hiện. Chẳng hạn, vì những nguyên nhân nào đó mà mất sự kích thích, giao hợp có thể kết thúc sớm mà không có giai đoạn cực khoái.

Trong giai đoạn hưng phấn, cả hai người chủ yếu sử dụng các hành động vuốt ve, ôm ấp, hôn, nói những lời yêu đương, đụng chạm tới cơ thể khỏa thân. Các cơ quan sinh dục sẽ phát triển độ nhạy cảm, đặc biệt là quy đầu và âm vật. Ở cửa vào âm đạo tiết ra dịch nhầy. Đàn ông bắt đầu có sự cương cứng của dương vật, mặc dù độ cương cứng chưa đủ để đưa dương vật vào âm đạo.

Nhân tố chủ yếu cần thiết cho giao hợp là sự cương cứng của dương vật. Đó là quá trình phản xạ có điều kiện. Nỗ lực của ý chí không thể làm xuất hiện sự cương cứng được. Việc cố làm cương cứng có thể làm tắt ngấm hoặc kìm hãm quá trình này.

Quá trình hưng phấn chuyển thành quá trình căng thẳng nhất về tình dục. Lúc đó, sự cương cứng của đàn ông trở nên rõ hơn. Ở các mu nhỏ của phụ nữ, máu dồn đến làm các mu này to gấp vài lần so với bình thường và có màu đỏ sẫm. Thành âm đạo tiết ra dịch nhờn làm ướt âm đạo. Đàn ông ham muốn được đưa dương vật vào âm đạo và đàn bà muốn được tiếp nhận dương vật.

Bắt đầu sự chuyển động của các cơ (dập) làm hưng phấn các vùng kích dục của cả hai người.
Sự kích thích của âm vật diễn ra từ từ, chậm hơn nhiều so với sự cương cứng của dương vật đàn ông. Âm vật to dần lên và trở nên rất nhạy cảm. Yếu tố tâm lý rất quan trọng trong việc kích thích âm vật; nhiều khi việc kích thích đầu và vùng xung quanh âm vật làm cho nó cương hơn so với yếu tố tâm lý. Điều đó giải thích cho những trường hợp người phụ nữ đạt được cực khoái với người đàn ông mà cô ta yêu hoặc lựa chọn. Trong lúc giao hợp, ít có trường hợp dương vật cọ xát trực tiếp với âm vật (trừ tư thế "phụ nữ ở trên"). Nhưng thường thì sự cọ xát như vậy cũng chưa đủ nên cả đàn ông hoặc đàn bà phải có sự kích thích bổ sung đầu âm vật.

Các chuyển động giao hợp ngày càng tăng và bắt đầu giai đoạn khoái cực. Trung bình từ lúc bắt đầu giao hợp cho tới lúc đạt được cực khoái thường là 3-4 phút. Nhưng đó cũng chỉ là số liệu tương đối. Ở các đôi mới gặp nhau sau một thời kỳ xa cách hoặc các cặp vợ chồng trẻ mới cưới, cực khoái có thể đến nhanh hơn. Trong thời điểm cực khoái, ở các cơ vùng hậu môn, tuyến nước tiểu hoặc vùng tiền tử cung của phụ nữ có hiện tượng co lại tự nhiên. Có thể mặt đỏ lên, các tuyến vú cứng lại, đầu vú phồng lên, nhưng ngay sau khi đạt được cực khoái, chúng trở nên mềm. Nếu núm vú vẫn cứng, điều đó chứng tỏ người phụ nữ không đạt được cực khoái. Cực khoái ở phụ nữ cũng được chia làm 3 thời kỳ. Thời kỳ đầu rất chớp choáng, dường như sự nhạy cảm dừng lại, sau đó xuất hiện cảm giác man mát hoặc tiết dịch. Hiện tượng đó giống như sự phóng tinh của phụ nữ. Sau đó, cảm giác ấm nóng xuất hiện ở vùng xương chậu và lan ra khắp cơ thể. Thời kỳ thứ ba bắt đầu với sự co thắt tử cung và vùng xương chậu. Người ta cho rằng, nếu người phụ nữ cảm thấy 8-12 lần co thắt là cực khoái mạnh, còn 3-4 lần là cực khoái vừa phải.

Có hai dạng cực khoái: cực khoái di kích thích âm vật, do va chạm vào âm vật và cực khoái do dương vật được đưa và chuyển động trong âm đạo. Nhưng điều đó không có nghĩa là khi cực khoái âm đạo không cần tác động vào âm vật. Đa số phụ nữ cho rằng họ đạt được cực khoái mạnh nhất khi đồng thời đưa dương vật vào âm đạo và kích thích âm vật hoặc các vùng kích dục khác. Vì thế, quan điểm cho rằng có 2 dạng cực khoái đối lập nhau là không đúng.

Khi giao hợp, vỏ não được truyền đến nhiều kích thích khác nhau không những do việc tác động trực tiếp tới các vùng kích dục mà còn do dáng vẻ bên ngoài của bạn tình, các chuyển động, cử chỉ, giọng nói, lời lẽ của anh ta... Nhiều đôi vợ chồng thường sử dụng làn điệu hoặc bản nhạc quen thuộc để gợi cảm xúc hưng phấn. Tất cả điều đó cho ta biết rằng, hệ thống phản xạ có điều kiện có ý nghĩa rất quan trọng để đạt được cực khoái.

Trong thời điểm cực khoái, các cơ niệu đạo của đàn ông co thắt lại để đẩy tinh dịch ra ngoài. Tinh dịch phụt ra với khoảng cách 0,8 giây/lần; sau 3-4 lần co thắt, sức mạnh và tần số co thắt giảm dần. Tinh hoàn và bàng quang cũng tham gia giao hợp. Các cơ của bìu co lại, tinh hoàn được nâng lên trên do sự co lại tự nhiên của các cơ treo. Điều đó cho phép người đàn ông thực hiện việc phóng tinh đầy đủ hơn.

Trong thời điểm cực khoái, người đàn ông có cảm giác nhất định phải phóng tinh và không kìm giữ được. Lúc đó, độ nhạy cảm dường như biến mất, sau đó xuất hiện khoái cảm rất rõ nét. Khi sự phóng tinh đã bắt đầu, người đàn ông không thể ngăn cản được bằng ý chí. Khoái cảm cao nhất đạt được nếu anh ta giao hợp với người phụ nữ mình yêu, khi tinh dịch được hồi phục lại đủ lượng cần thiết (khoảng 2-3 ngày sau lần phóng tinh sau cùng). Nếu người đàn ông sinh hoạt tình dục với khoảng cách quá ngắn, khoái cảm của những lần phóng tinh về sau càng giảm sút. Ở người phụ nữ thì những lần cực khoái càng về sau càng mãnh liệt hơn.

Việc đạt được khoái cảm sẽ đem lại cho cả hai người cảm giác thoải mái về cả tinh thần về thể chất (nói một cách bóng bẩy như lời một phụ nữ sau khi đạt được cực khoái: "Mỗi tế bào trong cơ thể tôi đều được thỏa mãn"). Ngược lại, việc không đạt được cực khoái có thể làm giảm sự sảng khoái, tăng sự bực bội, gây ra cảm giác khó chịu ở các cơ quan sinh dục. Khi cực khoái, trong cơ thể diễn ra những thay đổi rất quan trọng. Nhịp tim đôi lúc lên tới 180/phút (giống như các vận động viên khi căng thẳng về thể lực) huyết áp tăng 40-80 mmHg, tăng sự tuần hoàn của phổi...

Sau cực khoái là giai đoạn thả lỏng của toàn bộ cơ thể. Sự cương cứng mất đi, hơi thở trở lại bình thường, màu da trở lại như cũ, xuất hiện mong muốn được nghỉ ngơi. Sự đụng chạm tới các vùng kích dục có thể gây cảm giác khó chịu. Khả năng có đợt hưng phấn tình dục tiếp theo mang tính cá thể; thường ở đàn ông là khoảng vài giờ.
Tất cả các giai đoạn được miêu tả ở trên không phải lúc nào cũng được bộc lộ rõ nét. Chúng có thể diễn ra rất nhanh và lập tức chuyển sang giai đoạn khác.